TÍNH ĐỘC LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA Ý THỨC XÃ HỘI
I. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội biểu hiện ở những điểm cụ thể sau đây:
1) Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội:
Lịch sử xã hội đã cho chúng ta thấy được rằng, trong nhiều trường hợp khi tồn tại
xã hội cũ đã mất đi, nhưng ý thức xã hội cũ tương ứng thì nó lại vẫn còn tồn tại. Cụ thể
thì điều đó biểu hiện rằng ý thức xã hội muốn thoát ly ra khỏi sự ràng buộc của tồn tại xã
hội, ý thức xã hội trong trường hợp này đã biểu hiện tính độc lập tương đối.
Những nguyên nhân làm cho ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội, có 3
nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, do tác động mạnh mẽ và nhiều mặt trong hoạt động thực tiễn của con
người nên tồn tại xã hội diễn ra với tốc độ nhanh hơn khả năng phản ảnh của ý thức xã
hội.
Thứ hai, do sức mạnh của thói quen, tập quán truyền thống và do cá tính bảo thủ
của hình thái ý thức xã hội. Hơn nữa, những điều kiện tồn tại xã hội mới cũng chưa đủ để
làm cho những thói quen, tập quán và truyền thống cũ hoàn toàn mất đi.
Thứ ba, ý thức xã hội gắn liền với lợi ích của những tập đoàn người, của các giai
cấp nàp đó trong xã hội. Các tập đoàn hay giai cấp lạc hậu thường níu kéo, bám chặt vào
những tư tươngr lạc hậu để bảo vệ và duy trí quyền lợi ích kỉ của họ, để chống lại các lực
lượng tiến bộ trong xã hội.
Ta nhận thấy, ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Cho nên
trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới chúng ta sẽ cần phải thường xuyên tăng cường công
tác tư tưởng, đấu tranh chống lại âm mưu và hành động phá hoại những lực lượng thù
Preview text
TÍNH ĐỘC LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA Ý THỨC XÃ HỘI
I. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội biểu hiện ở những điểm cụ thể sau đây: 1) Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội: Lịch sử xã hội đã cho chúng ta thấy được rằng, trong nhiều trường hợp khi tồn tại xã hội cũ đã mất đi, nhưng ý thức xã hội cũ tương ứng thì nó lại vẫn còn tồn tại. Cụ thể thì điều đó biểu hiện rằng ý thức xã hội muốn thoát ly ra khỏi sự ràng buộc của tồn tại xã hội, ý thức xã hội trong trường hợp này đã biểu hiện tính độc lập tương đối. Những nguyên nhân làm cho ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội, có 3 nguyên nhân sau đây: Thứ nhất, do tác động mạnh mẽ và nhiều mặt trong hoạt động thực tiễn của con người nên tồn tại xã hội diễn ra với tốc độ nhanh hơn khả năng phản ảnh của ý thức xã hội. Thứ hai, do sức mạnh của thói quen, tập quán truyền thống và do cá tính bảo thủ của hình thái ý thức xã hội. Hơn nữa, những điều kiện tồn tại xã hội mới cũng chưa đủ để làm cho những thói quen, tập quán và truyền thống cũ hoàn toàn mất đi. Thứ ba, ý thức xã hội gắn liền với lợi ích của những tập đoàn người, của các giai cấp nàp đó trong xã hội. Các tập đoàn hay giai cấp lạc hậu thường níu kéo, bám chặt vào những tư tươngr lạc hậu để bảo vệ và duy trí quyền lợi ích kỉ của họ, để chống lại các lực lượng tiến bộ trong xã hội. Ta nhận thấy, ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Cho nên trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới chúng ta sẽ cần phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại âm mưu và hành động phá hoại những lực lượng thù
địch về mặt tư tưởng, kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ song song với việc bồi đắp, xây dựng và phát triển ý thức xã hội mới. Ví dụ: như ý thức tư tưởng phong kiến, phản ánh xã hội phong kiến, nhưng khi xã hội phong kiến đã thay đổi thì ý thức vẫn chưa thay đổi kịp về các tư tưởng như: trọng nam khinh nữ, ép duyên, gia trưởng. Cho đến tận giai đoạn ngày nay thì các tư tưởng này vẫn còn xuất hiện trong nhận thức của nhiều người. 2) Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội: Triết học Mác – Lênin đã thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định tư tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến sẽ có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, các tư tưởng này xuất hiện sẽ dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Lý do mà ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội là do nó phản ánh đúng được những mối liên hệ logic, khách quan, tất yếu, bản chát của tồn tại xã hộiư tưởng khoa học thường khái quát tồn tại xã hội đã có và hiện có để rút ra những quy luật phát triển chung của xã hội, quy luật đó không những phản ánh đúng quá khứ, hiện tại mà còn dự báo đúng tồn tại xã hội trong tương lai. Ví dụ: như ngay từ khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn còn đang ở trong thời kỳ phát triển tự do cạnh tranh thì Các Mác đã đưa ra dự báo rằng phương thức sản xuất đó nhất định sẽ bị một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn thay thế trong thời gian tới- phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. 3) Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển:
Ta nhận thấy rằng, trong ѕự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức, ý thức chính trị có ᴠai trò đặc biệt quan trọng. Ý thức chính trị của giai cấp cách mạng cũng đã đưa ra những định hướng cho ѕự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác. Trong điều kiện của nước ta hiện naу, những hoạt động tư tưởng như triết học, ᴠăn học nghệ thuật hay nhiều hoạt động tư tưởng khác mà tách rời đường lối chính trị đúng đắn của Đảng ѕẽ không tránh khỏi rơi ᴠào những quan điểm ѕai lầm, không thể đóng góp tích cực ᴠào ѕự nghiệp cách mạng của nhân dân. 5) Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội: Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hoá vai trò của ý thức xã hội mà chủ nghĩa duy vật lịch sử còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường khi phủ nhận tác động tích cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Ph.Ăng ghen từng viết như sau: “Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật v đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”. Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể, vào cấc quan hệ kinh tế vốn là cơ sở hình thành các hình thái ý thức xã hội; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng và vào mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng. Ta nhận thấy rằng, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đã chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển ý thức xã hội, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội cũng đã bác bỏ quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Ví dụ : như hệ tư tưởng tư sản đã tác động mạnh mẽ đến xã hội của các nước Tây Âu vào thế kỷ XVII, XVIII. Hệ tư tưởng vô sản đã trở thành vũ khí về mặt tư tưởng cho giai cấp vô sản đứng lên đấu tranh để xoá bỏ xã hội tư bản. Sự tác động của ý thức xã hội tới tồn tại xã hội được biểu hiện qua hai chiều hướng. Khi ý thức xã hội tiến bộ thì sẽ có tác động thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, còn ý thức xã hội lạc hậu sẽ gây cản trở cho sự phát triển của tồn tại xã hội. II. Vận dụng tính độc lập tương đối của ý thức xã hội: Trên thực tế thì ở giai đoạn hiện nay, việc nhận thức các hiện tượng của đời sống tinh thần xã hội sẽ cần phải căn cứ vào tồn tại xã hội đã làm nảy sinh ra nó. Bên cạnh đó thì cũng cần phải giải thích các hiện tượng đó từ những phương diện khác nhau thuộc nội dung tính độc lập tương đối của chúng. Cũng chính bởi vì thế, trong thực tiễn cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới cần phải được tiến hành song song trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó việc thay đổi tồn tại xã hội cũ là điều kiện cơ bản nhất để nhằm mục đích có thể thay đổi ý thức xã hội cũ. Bên cạnh đó, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội. Từ những phân tích trên, ta thấy rằng, nguyên lý của triết học Mác Lênin về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển của ý thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội nói chung. Thực tiễn khi vận dụng tính độc lập tương đối của ý thức xã hội vào đời sống có những ý nghĩa và đem lại hiệu quả to lớn.